Để phục vụ yêu cầu quản lý nhà nước của Thanh tra Chính phủ trong công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo, ngày 22/3/2021, Tổng Thanh tra ban hành Thông tư số 02/2021/TT-TTCP quy định chế độ thông tin, báo cáo công tác thanh tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng (sau đây gọi tắt là Thông tư số 02). Việc ban hành và tổ chức thực hiện Thông tư số 02/2021/TT-TTCP và Thông tư số 03/2013/TT-TTCP trước đó đã tạo ra nguồn thông tin tổng hợp lớn, đa dạng, phục vụ cho việc phân tích, đánh giá, dự báo tình hình trong các lĩnh vực quản lý nhà nước của Thanh tra Chính phủ; giúp Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Tổng Thanh tra Chính phủ và Thủ trưởng cơ quan hành chính, cơ quan thanh tra các cấp lãnh đạo, trong chỉ đạo, điều hành công tác thanh tra.
Trong thời gian qua, một số văn bản quy phạm pháp luật là căn cứ, cơ sở xây dựng, ban hành Thông tư số 02/2021/TT-TTCP đã được sửa đổi, thay thế: Luật Thanh tra số 11/2022/QH15 ban hành ngày 14/11/2022 thay thế Luật Thanh tra số 56/2010/QH12; Nghị định số 81/2023/NĐ-CP ngày 27/11/2023 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Thanh tra Chính phủ thay thế Nghị định số 50/2018/NĐ-CP, …)
Bên cạnh đó, các cơ quan có thẩm quyền quản lý, giám sát tiếp tục có những yêu cầu mới đối với công tác thông tin, báo cáo của ngành Thanh tra: Ủy ban Thường vụ Quốc hội có Văn bản số 545/UBTVQH15-PL ngày 21/7/2023 về việc xây dựng báo cáo hằng năm về công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo trình Quốc hội, kèm theo đề cương và yêu cầu báo cáo; Ban Nội chính Trung ương và Ủy ban Tư pháp Quốc hội yêu cầu bổ sung một số nội dung về công tác phòng, chống tham nhũng.
Quá trình thực hiện Thông tư số 02/2021/TT-TTCP đến nay, nội dung hướng dẫn tổng hợp một số tiêu chí thống kê còn chưa rõ, có cách hiểu khác nhau dẫn đến chưa thống nhất trong thống kê, tổng hợp …
Chính vì vậy, việc ban hành Thông tư thay thế Thông tư số 02/2021/TT-TTCP là cần thiết và phù hợp trong điều kiện hiện nay; để phù hợp với quy định của pháp luật, đồng thời nhằm đáp ứng yêu cầu quản lý nhà nước, yêu cầu kiểm tra, giám sát về công tác thanh tra, tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng và tiếp tục ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác thống kê, tổng hợp báo cáo của ngành Thanh tra.
Ngày 30/8/2023, Thanh tra Chính phủ ban hành Quyết định số 447/QĐ-TTCP về việc thành lập Tổ soạn thảo xây dựng dự thảo Thông tư quy định chế độ báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng. Theo đó Vụ trưởng Vụ Kế hoạch tổng hợp, Thanh tra Chính phủ làm Tổ trưởng; một số thành viên là đại diện các đơn vị thuộc Thanh tra Chính phủ và một số thành viên là đại diện Thanh tra các Bộ (Bộ Công an, Bộ Tài chính và Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng).
Ngày 02/10/2023, Thanh tra Chính phủ có Công văn số 2199/TTCP-KHTH gửi các Bộ ngành, các tỉnh thành phố và các đơn vị có liên quan về việc lấy ý kiến góp ý dự thảo Thông tư quy định chế độ báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, thay thế Thông tư số 02/2021/TT-TTCP ngày 22/3/2021 của Thanh tra Chính phủ.
Thanh tra Bộ là đơn vị được Bộ Tài chính giao chủ trì việc tham gia ý kiến đối với Thông tư 02/2021/TT-TTCP ngày 22/3/2021 của Thanh tra Chính phủ. Sau khi nghiên cứu dự thảo Thông tư sửa đổi và Thuyết minh nội dung dự thảo Thông tư thay thế, Thanh tra Bộ Tài chính đã có ý kiến tham gia như sau:
Bộ Tài chính là Bộ đa ngành, đa lĩnh vực, có nhiều đơn vị trực thuộc. Gồm 5 tổng cục qui mô xuyên suốt từ trung ương đến địa phương (Tổng cục Thuế gồm 63 Cục thuế và các Chi cục đến cấp huyện; Tổng cục Hải quan gồm 32 Cục Hải quan khu vực và Chi cục; Kho bạc Nhà nước gồm 63 Cục Kho bạc tỉnh và Kho bạc đến cấp huyện; Tổng cục Dự trữ NN gồm 22 Cục DTNN khu vực; Ủy ban Chứng khoán NN; 05 Cục thuộc Bộ được giao chức năng thanh tra chuyên ngành, gần 50 đơn vị Cục, Vụ thuộc Bộ ...). Vì vậy công tác tổng hợp báo cáo của Bộ Tài chính (Thanh tra Bộ) về công tác thanh tra, giải quyết KNTC và phòng, chống tham nhũng nói chung, đặc biệt là báo cáo về công tác TCD, giải quyết KNTC là rất phức tạp, số liệu nhiều, qua nhiều cấp, theo Thông tư 02/2021 của Thanh tra Chính phủ là 10 biểu; các số liệu giữa các biểu lại liên kết chặt chẽ với nhau, ràng buộc nhau ... Vì vậy, Bộ Tài chính đề nghị Tổ soạn thảo thông tư thay thế Thông tư 02 nghiên cứu theo hướng đơn giản hóa, bớt số cột trong bảng biểu, kèm theo việc hướng dẫn bảng biểu thật chi tiết, chính xác, dễ làm, dễ hiểu; bao gồm cả việc nên nhập số liệu vào biểu nào trước, biểu nào sau sẽ thuận tiện hơn ... Cụ thể:
1. Tại biểu 01/XLD - Tổng hợp kết quả xử lý đơn
- Đề nghị hướng dẫn cụ thể cách lấy số liệu cột 8 “số đơn đã xử lý” lý do:
+ Nếu hiểu “số đơn đã xử lý” bao gồm các đơn đã xử lý xong thì phù hợp với số liệu tại cột 9 “số đơn đủ điều kiện xử lý”, phần kết quả xử lý cột 18 “tổng số đơn thuộc thẩm quyền” và cột 22 “tổng số đơn không thuộc thẩm quyền”
+ Nếu hiểu “số đơn đã xử lý” bao gồm các đơn đã xử lý xong và các đơn đang xử lý thì phù hợp với chỉ tiêu tại cột 16 “đang giải quyết” nhưng lại không phù hợp với số liệu tại cột 9, cột 18 và cột 22.
- Việc hiểu như thế nào ảnh hưởng tới việc lấy số liệu tại cột 1 biểu số 01/KQGQ và cột 1 Biểu số 03/KQGQ.
Theo “Hướng dẫn cách ghi biểu” thì:
Cột 9 = Cột 11+ 12+13 = Cột 14+15+16+17 = Cột 18 +22
Cột 18 và cột 22 nằm trong mục “ Kết quả xử lý đơn” , để có kết quả xử lý đơn thì chỉ gồm những đơn đã giải quyết (không có đơn đang giải quyết và chưa giải quyết). Vì vậy việc hướng dẫn Cột 9 = Cột 11+ 12+13 = Cột 14+15+16+17 = Cột 18 +22 là không chính xác.
Đề nghị sửa lại là : Cột 9 = Cột 11+ 12+13 = Cột 14+15+16+17
Cột 14 + 15 = Cột 18+22
2. Tại biểu 02/XLĐ - Tổng hợp kết quả xử lý đơn khiếu nại
Đề nghị bỏ cột 28 “Chuyển đơn đối với vụ việc không thuộc thẩm quyền”
Lý do: Thông tư 05/2021/TT-TTCP ngày 01 tháng 10 năm 2021 của Thanh tra Chính phủ quy định việc tiếp nhận, phân loại, xử lý đối với đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, phản ánh không qui định chuyển đơn khiếu nại, chỉ qui định hướng dẫn.
2. Tại biểu 03/XLD - Tổng hợp kết quả xử lý đơn tố cáo
+ Đề nghị bổ sung cột “đã giải quyết” tại phần phân loại vụ việc theo tình trạng giải quyết để đảm bảo việc tổng hợp số liệu được tổng thể.
+ Theo quy định tại khoàn 1 Điều 14 Thông tư 05/2021/TT-TTCP ngày 01/10/2021 quy định việc xử lý đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền: “Đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình thì người xử lý đơn đề xuất với người đứng đầu chuyển đơn và các thông tin, tài liệu kèm theo (nếu có) đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc chuyển đơn tố cáo được thực hiện theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Thông tư này. Việc chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền chỉ thực hiện một lần đối với đơn tố cáo có cùng nội dung.”
Tuy nhiên tại biểu 03/XLD - Tổng hợp kết quả xử lý đơn tố cáo có cột 30 “hướng dẫn” phần kết quả xử lý đối với vụ việc không thuộc thẩm quyền.
Đề nghị bỏ cột 30 hoặc hướng dẫn cách lấy số liệu cột 30.
3. Tại biểu 04/XLD - Tổng hợp kết quả xử lý đơn kiến nghị, phản ánh
Đề nghị hướng dẫn cụ thể cách lấy số liệu cột 8 “số đơn đã xử lý” lý do:
+ Nếu hiểu “số đơn đã xử lý” bao gồm các đơn đã xử lý xong thì phù hợp với số liệu tại cột 11 “số đơn đủ điều kiện xử lý”, phần kết quả xử lý cột 20 “vụ việc thuộc thẩm quyền” và cột 21 “vụ việc không thuộc thẩm quyền”
+ Nếu hiểu “số đơn đã xử lý” bao gồm các đơn đã xử lý xong và các đơn đang xử lý thì phù hợp với chỉ tiêu tại cột 18 “đang giải quyết” nhưng lại không phù hợp với số liệu tại cột 11, cột 20 và cột 21.
Theo “Hướng dẫn cách ghi biểu” thì:
Cột 12 = Cột 13+14+15+16 = Cột 17+ 18+19 = Cột 20+21
Cột 20 và cột 21 nằm trong mục “ Kết quả xử lý ” , để có kết quả xử lý (vụ việc) thì chỉ gồm những vụ việc đã giải quyết (không có vụ việc đang giải quyết và chưa giải quyết). Vì vậy việc hướng dẫn Cột 12 = Cột 13+14+15+16 = Cột 17+ 18+19 = Cột 20+21 là không chính xác.
Đề nghị sửa lại là : Cột 12 = Cột 13+14+15+16 = Cột 17+ 18+19
Cột 17 = Cột Cột 20 + 21
4. Tại đề cương, các nội dung yêu cầu báo cáo số đơn và số vụ việc thì đồng thời tại biểu mẫu cũng yêu cầu theo dõi, báo cáo số đơn và số vụ việc tương tự để tránh tình trạng đề cương yêu cầu tổng hợp đơn/vụ việc tuy nhiên tại biểu mẫu không hướng dẫn theo dõi, thống kê dẫn đến không có số liệu để tổng hợp báo cáo.
Ví dụ: Đề cương yêu cầu cung cấp số liệu và so sánh tỷ lệ tổng đơn và tổng vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền đã xử lý và đủ điều kiện xử lý/ tổng đơn và tổng vụ việc khiếu tại, tố cáo thuộc thẩm quyền tiếp nhận. Tuy nhiên trên biểu mẫu không yêu cầu theo dõi, thống kê tổng đơn và tổng vụ việc khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền tiếp nhận dẫn đến việc báo cáo không có số liệu để so sánh, đánh giá theo yêu tại Đề cương.
5. Tại điểm 5 mục II Đề cương báo cáo nội dung về TCD, giải quyết KNTC qui định
“ Công tác quản lý nhà nước về tiếp công dân, khiếu nại, tố cáo
(Chỉ áp dụng đối với Báo cáo chuyên đề về tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo; đối với báo cáo định kỳ thì nội dung này được thể hiện tổng hợp trong phần quản lý nhà nước tại Mẫu số 01: Đề cương về nội dung công tác thanh tra).
Không nên qui định như vậy, vì Thông tư 02 qui định về 03 loại báo cáo gồm: (i)BC về thanh tra, (ii) BC về TCD giải quyết KNTC, (iii) BC về PCTN. Tại nhiều cơ quan, đơn vị 03 báo cáo này giao cho 03 đơn vị khác nhau để thực hiện báo cáo. Vì vậy để thuận tiện cho việc làm báo cáo và việc lấy số liệu, nội dung không chỉ báo cáo Thanh tra Chính phủ mà còn nhiều cơ quan khác như: Các cơ quan của Đảng, của Quốc hội, Bộ chủ quản … thì báo cáo lĩnh vực nào nên thực hiện báo cáo đầy đủ các biểu mẫu kèm theo đối với cả báo cáo chuyên đề và báo cáo định kỳ.
Ngày 31/10/2023, Bộ Tài chính đã có Công văn số 11765 /BTC-TTr gửi Thanh tra Chính phủ để tham gia ý kiến việc sửa Thông tư 02 với những nội dung như trên. Hầu hết các nội dung tham gia của Bộ Tài chính đã được Tổ soạn thảo tiếp thu đưa vào dự thảo thông tư sửa Thông tư 02 quy định chế độ báo cáo công tác thanh tra, tiếp công dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo và phòng, chống tham nhũng, thay thế Thông tư số 02/2021/TT-TTCP ngày 22/3/2021 của Thanh tra Chính phủ./.
Nguyễn Thị Ngọc